Dọc theo chiều dài gần sáu trăm năm lịch sử, vùng đất bên bờ sông Hàn này đã có nhiều tên như : Hàn , Đồng Long , Hiện Cảng, Tourane, Thái Phiên, Đà Nẵng.
Vua Lê Thánh Tông có thơ tả về đất này như sau :
” Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt
Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạt thuyền"
Đất anh hùng lần nữa quyết hi sinh “
Đà Nẵng đã được đô thị hóa khá sớm, có lẽ chỉ sau Hội An. Từ thế kỉ 19, lịch sử đã đẩy Đà Nẵng vào cái thế “làng – phố” , hậu quả của đô thị hóa được phân chia khá độc đáo :
” Đứng bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân, nước xanh như tàu lá
Đứng bên tê Hà Thân ngó về Hàn, phố xá nghênh ngang! “
Sông Hàn phân chia làng và phố . Có một câu dân gian: “Con gái quận ba không bằng bà già quận nhất”, có lẽ đó là câu nói tự trào về cái cảnh “thua chị kém em” của dân hữu ngạn so với cư dân tả ngạn. Lối xưa, có việc qua sông, người bên hữu ngạn vẫn quen gọi là “đi Đà Nẵng”, dù họ đang trú ngụ ngay trên đất Đà Nẵng, nhưng phía bên làng, không có “phố xá nghênh ngang” , đông vui như Đà Nẵng :
''Cảnh mô vui bằng cảnh đất Hàn
Dưới sông tàu chạy, trên đàng hỏa xa
Kho dầu Đồng Lợi, Ba Toa
Trường Lăng máy gạo bước qua chợ Hàn"
Năm 1965, Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ hỗn hợp quân sự lớn. Đà Nẵng mở rộng, bên cạnh căn cứ quân sự là kết cấu hạ tầng: sân bay, cảng, kho bãi, đường sá, công trình công cộng, cơ sở thông tin, tín dụng ngân hàng …
Xưa, Đà Nẵng có hai ga, một ở trên đường Bạch Đằng, bên sông Hàn, và một nằm ở trong thành phố .
- Có bảo tàng cổ vật Chàm, do Musée Parmentier sáng lập vào thời Pháp thuộc .
- Có Nhà Thờ Chính Tòa Đà Nẵng, khởi công năm 1923, do linh mục Vallet vẽ phác thảo và chủ công xây dựng, còn gọi là nhà thờ Con Gà, bởi trên nóc nhà thờ cao 27m này có con gà màu xám làm bằng hợp kim, trơ gan cùng tuế nguyệt .
- Có chùa cổ Linh Ứng, có Vọng Hải Đài nơi thi sĩ Phạm Hầu đã làm bài thơ “Vọng Hải Đài” nổi tiếng:
Chẳng biết xa lòng nhớ những ai
Thềm hoa từng dội gót vân hài
Hỡi ơi! Ngươi chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải Đài
Cơn gió nào lên một buổi chiều
Ai ngờ thổi tạt tấm tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu
Trống trải trên đài du khách qua
Mấy ngày vơ vẩn gió đêm là
Và muôn đời hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa
Lòng xiêu xiêu hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa lài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai ?
Trên mỏm núi Sơn Trà có hệ thống rada mắt thần , thiết kế theo hình tròn rất độc đáo. Những năm 60, có nhà hàng nổi trên sông Hàn, có dãy quán bán nước giải khát dọc bờ sông trên đường Bạch Đằng xưa, trên sông có những con tàu thủy lớn chạy qua dòng sông thơ mộng với những cô gái chèo đò trên sông.
Bên sông Hàn có cầu Cảng, có nhà ga cảng dựng thời Pháp, đắp chữ nỗi “Bến Cá Bạch Đằng”, Nay nằm bên cạnh là Cầu Xoay Sông Hàn
Biển Đà Nẵng đẹp, ngày xưa bị phong tỏa bằng dây thép gai …
Xưa làng Phong Lệ có lễ hội mục đồng, nay chắc làng không còn trẻ chăn trâu?. Làng biển Xuân Hòa, Mân Thái có lễ hội cầu ngư , nay hẳn còn, lễ lớn hơn xưa ?.
Người Đà Nẵng có nụ cười và “tấm lòng Đà Nẵng”, với những cuộc nhậu tàn đêm. Nói nhậu thì vùng nào cũng có, nhưng không phải mọi cuộc “nâng lên để xuống” nào cũng giống nhau. Đà Nẵng nhậu không khách sáo, hình như hơi thái quá, nhậu thâu đêm còn dùng dằng … không nở rời nhau.