Là một trong những ngôi của cổ nhất Việt Nam, chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Không chỉ mang trong mình nhiều giá trị lịch sử, kiến trúc, điêu khắc mà đó còn là nơi khởi nguồn của đạo Phật. Đây là một trong những công trình di tích tín ngưỡng tiêu biểu, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến hành hương, tìm hiểu về giá trị lịch sử.
Chùa Dâu còn có nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự. Nơi đây là trung tâm thành cổ Luy Lâu từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Theo ghi chép trong sách sử và bia đá tại chùa, chùa Dâu được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 (khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226) dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú.
Chùa Dâu ngày nay là kiến trúc tu sửa từ thời Hậu Lê (vào thế kỷ 17-18), được xây dựng gồm: bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhất bao quanh ba ngôi nhà chính: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Đây là di tích gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và Tứ Pháp (Pháp Vân - Nữ thần Mây, Pháp Vũ - Nữ thần Mưa, Pháp Lôi - Nữ thần Sấm, Pháp Điện - Nữ thần Chớp), đó là biểu hiện sinh động sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo. So với nhiều ngôi chùa ở miền Bắc, chùa Dâu là một trong số ít các ngôi chùa vẫn duy trì các nhóm tượng thờ theo phong tục tín ngưỡng thờ tự của Phật giáo thời Lê, đó là tín ngưỡng thờ tự các tượng: Tứ trấn, Hộ pháp, Kim cương, Thập điện Diêm vương, Phật và Bồ tát, các vị La hán... Trải qua nhiều lần trùng tu và tôn tạo, chùa Dâu vẫn còn lưu lại nhiều hiện vật có giá trị đặc biệt là bản khắc “Cổ Châu Pháp vân Phật bản hạnh” có niên đại 1752 và 6 đạo sắc phong có giá trị lịch sử có từ thời vua Minh Mạng (1791 - 1842), Tự Đức (1829 - 1893) và vua Khải Định (1885 – 1925). Qua nghiên cứu, các nhà sử học và Phật học đã khẳng định “Chùa Dâu là Tổ đình của Phật giáo Việt Nam”.
18 vị La Hán trong chùa Dâu |
Tháng 12/2013 vừa qua, chùa Dâu được công nhận là di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Ông Trần Đình Luyện, Phó Chủ tịch thường trực Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bắc Ninh, cho rằng: “Việc chùa Dâu và Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Bút Tháp của Bắc Ninh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt là hoàn toàn xứng đáng. Chúng ta cần tuyên truyền cho người dân hiểu giá trị của di tích này và cần có một kế hoạch để bảo tồn".
Trải qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Dâu vẫn là một địa danh được đông đảo du khách trong nước và nước ngoài cùng bà con kiều bào hành hương, tìm hiểu về kiến trúc nghệ thuật độc đáo cũng như tìm về nguồn cội của Phật giáo Việt Nam. Đây là niềm tự hào không nhỏ đối với mỗi người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này. Bà Bùi Thị Lợi, ở thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cho biết: “Là một người ở địa phương tôi rất tự hào về ngôi chùa cổ kính này. Đây là một ngôi chùa có nghĩa lịch sử khi gắn liền với Phật giáo và là ngôi chùa độc đáo vào bậc nhất khu vực Đông Nam Á”.
Tháp Hòa Phong |
Còn ông Nguyễn Duy Khoa, Trưởng ban Văn hóa xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, chia sẻ: “Với bản thân tôi, tôi rất tự hào bởi đây là quê hương tôi sinh ra và lớn lên và cũng là quê hương của đất Phật. Rất nhiều người con của quê hương dù đi đâu, làm gì, cũng luôn nhắc nhở nhau về quê dự Hội chùa Dâu vào Ngày 8/4 âm lịch hằng năm”.
Với ý nghĩa là cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho 1 năm sản xuất nông nghiệp được bội thu, lễ hội chùa Dâu được tổ chức vào ngày 8 tháng 4 âm lịch hàng năm. Lễ hội có nhiều nghi thức sinh hoạt dân gian và nhiều trò diễn xướng phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách thập phương, tín đồ, tăng, ni phật tử đến dâng hương, dự hội. Đây được coi là lễ hội Phật giáo lớn của vùng Bắc Bộ, qua đó thể hiện nét đẹp, giá trị văn hóa về đời sống tín ngưỡng của một vùng đất cổ xưa còn để lại./.
Vài nét về Kiến Trúc
Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng, cảnh quan đẹp, quay về hướng Tây, có bình đồ kiến trúc kiểu “nội Công ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tam quan, tiền thất (bái vọng đường), tháp Hoà Phong, Tam bảo, hậu đường, hai dãy hành lang và các công trình phụ trợ, như: nhà Mẫu và Tổ, nhà khách, vườn tháp, ao chùa, hệ thống tường bao.
Tam quan gồm 3 gian, bộ khung gỗ gác trên 4 hàng chân cột, kết cấu vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, cốn, bẩy”. Các cấu kiện đều được bào trơn đóng bén, mái lợp ngói, tường hồi bít đốc, mở thông thoáng cả 3 gian.
Tiền thất (bái vọng đường) gồm 7 gian, 2 chái, với mái lợp ngói, đầu đao cong, bộ khung gỗ, các vì nóc đều được kết cấu theo dạng “tiền kẻ, hậu kẻ, câu đầu, trụ nóc”, tì lực trên 4 đầu cột. Hầu hết cấu kiện ở tòa này đều được bào trơn đóng bén, chỉ có những đầu kẻ ở gian giữa được chạm hoa lá cách điệu. Nội thất bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ, trước khi vào lễ Phật.
Hai dãy hành lang: song song với nhau, nối tiền thất và hậu đường. Mỗi dãy gồm 22 gian và được chia thành 2 phần: hành lang phía trước 12 gian và hành lang phía sau 10 gian, được ngăn cách bởi một bộ cửa ván bưng. Hành lang phía sau là nơi thờ 18 vị La Hán.
Tháp Hoà Phong: được dựng ở giữa sân chùa. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng, nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Tầng thứ nhất, mỗi cạnh rộng 6,75m, cao 4,5m, bốn mặt đều có cửa, xây cuốn vòm. Tầng thứ hai cao 4m, mỗi cạnh rộng 6,15m, có 4 cửa cuốn vòm. Trên cùng là vòm mái, được xây cuốn bằng gạch, dánh khum như long đình. Đỉnh tháp được tạo hình như một bình nước cam lộ. Trong lòng tháp, phía dưới có bệ thờ “Tứ trấn” (Tứ Thiên Vương), bằng gỗ phủ sơn, cao 1,60m. Phía trên treo khánh đồng, chuông đồng. Phía trước tam cấp cửa phía Tây có 2 tượng sóc đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Bên trái có một tượng cừu đá (dấu ấn của văn hoá phương Bắc, phản ánh sự hiện diện của Thái thú Sĩ Nhiếp khi đóng trị sở ở thành Luy Lâu). Trên tháp Hoà Phong hiện còn một tấm biển bằng đá xanh gắn ở phía Tây (tầng hai) có đề 3 chữ “Hòa Phong tháp”.
Tiền đường: được dựng trên nền thấp hơn thượng điện 0,60m, có chiều rộng 9,50m, chiều dài 21m, cao 0,37m, gồm 7 gian, 2 chái, hai hồi xây bít theo kiểu cột trụ cánh phong. Toà này có 8 bộ vì kèo kiểu “câu đầu, trụ, nóc, cốn, tiền kẻ, hậu bẩy”, kết cấu khung đỡ mái tì lực trên 32 đầu cột. Trên các đầu kẻ, bẩy, cốn đều được chạm nổi hoa văn dạng mây lá, tứ linh, tứ quý, triện dây. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, dài 2,15m, cao 0,65m, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương.
Thiêu hương: còn được gọi là ống muống, nối liền thượng điện và tiền đường, có chiều dài 9,40m, rộng 5,55m, mặt nền thấp hơn thượng điện, gồm 3 gian. Hệ thống đỡ hoành mái gồm 4 bộ vì, mỗi vì đều được gác trên 4 đầu cột. Trong tòa này đặt các ban thờ Thập điện Diêm Vương, Mạc Đĩnh Chi và Thái tử Kỳ Đà.
Thượng điện: được dựng trên nền cao 1,27m, có mặt bằng hình chữ nhật, dài 13,90m, rộng 10,65m, gồm 1 gian, 2 chái, với 4 bộ vì, 4 mái đao cong. Đặc biệt, tại tòa này còn bảo lưu được hai bộ vì nóc kiểu “giá chiêng”, với khoảng giữa gắn hình lá đề chạm nổi đôi rồng chầu mặt trời và hai trụ trốn bên chạm nổi hình phỗng. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đây là những bộ phận kiến trúc/trang trí mang phong cách nghệ thuật thời Trần; cũng có nhà nghiên cứu lại cho rằng kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thời Mạc, tương tự như ở chùa Thái Lạc và Bối Khê. Thượng điện có các ban thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật (gọi tắt là Pháp Vân), tượng Bà Trắng, Bà Đỏ, Thạch Quang Phật, Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn...
Hậu đường: gồm 9 gian, 2 dĩ, bộ khung gỗ, vì nóc được kết cấu theo kiểu “trụ, quá giang, kẻ”. Đây là nơi thờ Đức ông, Quan Âm, Thánh Hiền, Địa Tạng Vương, Hậu Phật. Trung tâm điện Phật có các tượng Tam Thế, Quan Âm chuẩn đề.
Nhà Tổ: nằm sát bên trái hậu đường. Đây là tòa nhà 5 gian, tường hồi bít đốc, bộ khung gỗ, vì kèo kiểu “”con chồng, giá chiêng, kẻ truyền”. Tòa này thờ Tổ và thờ Mẫu.
Nhà Khách: gồm 7 gian, tường xây bít đốc, bộ khung gỗ lim, vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, quá giang, bẩy”.
Vườn Tháp: hiện còn 8 tháp gạch của các sư từng tu tại chùa, có niên đại từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Chùa Dâu in đậm dấu ấn kiến trúc, điêu khắc của nhiều thời kỳ lịch sử, với hệ thống tượng pháp mang nghệ thuật đặc sắc của thời Lê - Nguyễn, đặc biệt là hệ thống tượng Tứ Pháp. Đây là một minh chứng sống động của sự dung hội giữa Phật giáo Ấn Độ khi du nhập vào nước ta với tín ngưỡng bản địa của người Việt, đã tạo nên một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo mang bản sắc dân tộc./.